Bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự

1. Khái niệm người làm chứng

Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định sự thật của vụ án hình sự.

Người làm chứng có thể trực tiếp chứng kiến vụ án, trực tiếp biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án mà không thông qua một khâu trung gian nào hoặc họ có thể được nghe người khác kể lại. Thông thường, lời khai của người làm chứng có tính trung thực, khách quan cao, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật của vụ án.

2. Quy định về bảo vệ người làm chứng ở một số nước trên thế giới

Vấn đề bảo vệ người làm chứng đã được pháp luật nhiều nước trên thế giới quy định và áp dụng từ lâu. Nước Mỹ có cả quy chế đầy đủ và chặt chẽ để bảo vệ người làm chứng nhằm mục đích tránh sự trả thù hoặc các hành vi làm phương hại đến người làm chứng của bị can, bị cáo và những người có liên quan.

Năm 2004, Liên bang Nga ban hành Luật Bảo vệ nhân chứng, đến năm 2006, Chính phủ Nga thông qua chương trình nhà nước bảo vệ nạn nhân và nhân chứng và những người tham gia tố tụng khác với số tiền lên đến 01 tỷ rúp (tương đương 633 tỷ đồng) cho riêng giai đoạn 2006 đến 2008. Ngày 23/6/2010, Nga thành lập Cục Bảo vệ nhân chứng và quan toà trực thuộc Bộ Nội vụ liên bang nhằm bảo vệ những người thuộc diện bảo vệ của Nhà nước.

Tại Philippines, năm 1991 Bộ Tư pháp nước này đã triển khai chương trình trợ cấp an ninh và bảo vệ nhân chứng. Tham gia chương trình nhân chứng, người làm chứng và người thân có thể thay đổi chỗ ở, được trợ cấp tiền bạc, thanh toán chi phí đi lại và trợ cấp đi lại1. Quy chế Rome về Toà án Hình sự quốc tế cũng đã quy định giải pháp bảo vệ nhân chứng và nạn nhân bằng các biện pháp phòng ngừa và lập Phòng nạn nhân, Phòng nhân chứng.

3. Quy định về bảo vệ người làm chứng tại Việt Nam

Ở Việt Nam, để bảo vệ người làm chứng, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 đã dành một chương riêng – Chương 34 quy định về các biện pháp bảo vệ các đối tượng này. Theo đó, khi tham gia tố tụng, nếu người làm chứng bị cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có hành vi đe doạ hoặc cưỡng bức đến bản thân hoặc người thân thích trong gia đình thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ được quy định tại Điều 486 Bộ luật TTHS, cụ thể:
“Điều 486. Các biện pháp bảo vệ:
1. Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp sau đây để bảo vệ họ:
a) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ; b) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ;
c) Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ;
d) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý;
đ) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật;
e) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
2. Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.”

Trong trường hợp khẩn cấp, người làm chứng có thể đến trực tiếp cơ quan có thẩm quyền đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Sau đó, cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cứ, tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ, nếu đủ căn cứ thì ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ và lập hồ sơ bảo vệ. Nếu xét thấy không cần thiết áp dụng thì phải giải thích rõ cho người đã yêu cầu, đề nghị biết.

Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng là Cơ quan điều tra của Công an nhân dân và Cơ quan điều tra của Quân đội nhân dân (Điều 485 Bộ luật TTHS). Thời gian bảo vệ người làm chứng được tính từ khi có quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ (Điều 489 Bộ luật TTHS).

Trường hợp còn bất cứ câu hỏi nào chưa được giải đáp hoặc có thắc mắc cần tư vấn, trợ giúp của các luật sư, bạn có thể liên hệ với Công ty luật TNHH Giang Anh qua địa chỉ website: https://gianganhlaw.com hoặc Hotline tư vấn: 034 542 8668.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *